Nội dung bài viết
Độ trong và độ đục trong mô hình nuôi tôm công nghiệp
Độ đục của nước là số lượng của các hạt vật chất lở lửng trong nước, có khả năng cản những tia nắng mặt trời và độ trong của nước là khả năng cho ánh sáng xuyên qua nước.
Độ đục cao (độ trong thấp) làm cho ánh sáng mặt trời bị cản bởi vật chất lơ lửng ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thực vật phù du, gây chênh lệch nhiệt độ, giảm hàm lượng oxy hòa tan=> gây tắc nghẽn mang tôm tan do ánh sáng mặt trời bị cản bởi vật chất lơ lửng.
Ngược lại, nếu độ trong cao => nước nghèo dinh dưỡng , sinh vật phù du kém phát triển sẽ làm giảm đi nguồn thức ăn tự nhiên của tôm. Đặc biệt đối với các nơi ương giống sẽ giảm tỉ lệ sống tôm giống đáng kể do thiếu hụt nguồn thức ăn.
Độ trong thích hợp của ao nuôi tôm 30 – 45cm.
Một số cách xử lý độ đục ở nước nuôi tôm
Ảnh hưởng của độ kiềm đến độ đục ao nuôi tôm
Khi nước không trong sau khi các nguồn gây đục đã được loại bỏ, nên kiểm tra tổng độ kiềm. Nếu độ kiềm thấp – dưới 30 ppm => bón vôi để tăng độ kiềm.
Tham khảo: “Cách tăng độ kiềm ao nuôi tôm”
Trong các ao có độ kiềm trên 40 ppm, hoặc nếu bón vôi không làm hết độ đục, có hai lựa chọn: xử lý độ đục bằng phân vi sinh hoặc xử lý ao bằng chất trợ lắng, keo tụ. Cách tiếp cận phổ biến là thử phân vi sinh và sử dụng chất trợ lắng, keo tụ là biện pháp cuối cùng.
Nhiều chất keo tụ có thể có bao gồm canxi sunfat (thạch cao), canxi clorua, nhôm sunfat (phèn), nhôm clorua, sắt sunfat, sắt clorua và một số polyme hữu cơ nhất định. Hai chất keo tụ phổ biến nhất được sử dụng trong ao nuôi thủy sản là thạch cao và phèn.
Hạt lắng
Độ đục khó chịu thường là do chất hữu cơ lơ lửng hoặc các hạt bùn mịn. Các hạt này vẫn ở trạng thái huyền phù, gây đục kéo dài vì ba lý do cơ bản.
- Trong môi trường ao nuôi luôn chuyển động, kéo theo các hạt mịn chuyển động và khó lắng xuống đáy ao.
- Tốc độ bị cuốn lên trở lại của các hạt có thể nhanh hơn tốc độ lắng.
- Hạt lơ lửng thường lắng với tốc độ cực kỳ chậm.
Các ion Na+, K+ có hiệu quả thấp trong quá trình trợ lắng so với các ion Ca2+, Mg2+.
Các ion kim loại như nhôm và sắt là những chất keo tụ đặc biệt mạnh (hỗ trợ kéo chất lơ lửng xuống), nhưng nồng độ tự nhiên của chúng trong nước rất thấp.
Ngoài ra, sự thay đổi độ pH của nước do hoạt động quang hợp hoặc phân hủy chất hữu cơ đôi khi làm thay đổi điều kiện xung quanh các hạt lơ lửng và làm cho chúng kết tụ và lắng xuống.
Thạch cao
Thạch cao phải được áp dụng với một lượng lớn để loại bỏ độ đục. Tỷ lệ xử lý thông thường là 100-150 mg/L, thực hiện các thử nghiệm trong lọ để xác định tỷ lệ xử lý hiệu quả ít tốn kém nhất. Trong ao rộng 1 ha, sâu 1m, với nồng độ sử dụng 100 mg/L sẽ cần 1.000 kg/ha.
Thạch cao nên được rải khắp bề mặt ao, và khi nó hòa tan sẽ làm tăng nồng độ canxi trong nước để cải thiện điều kiện cho quá trình keo tụ của các hạt lơ lửng. Tỷ lệ xử lý hiệu quả đối với clorua canxi (CaCl2) tương tự như đối với thạch cao.
Phèn nhôm
Liều lượng các hợp chất sắt và nhôm cần thiết để làm giảm độ đục thấp hơn liều lượng sử dụng các hợp chất canxi (Ca). Ví dụ, phèn nhôm lọc thường có hiệu quả ở nồng độ 20-50 mg/L. Phèn có khả năng gây nguy hiểm vì nó có tính axit cao và người sử dụng nên mặc quần áo bảo hộ. Phèn cũng làm giảm tổng nồng độ kiềm khoảng 0,5 ppm cho mỗi 1,0 mg/L chất keo tụ này.
Trong hầu hết các ao, phèn làm giảm độ kiềm và pH, nhưng sau một vài ngày, các giá trị trở lại mức ban đầu (Hình 1). Tuy nhiên, các phương pháp xử lý phèn không được quá 50% tổng nồng độ kiềm, và nước có độ kiềm thấp nên được bón vôi trước khi bón phèn.
Phèn chua nên được hòa tan trước trong nước và phun trên toàn bộ mặt nước ao vào những ngày không có mưa. Có thể sử dụng quạt nước trong vài phút để trộn phèn với nước ao, nhưng sau đó nên tắt máy để lắng cặn.
Điều quan trọng là phải bón đủ lượng phèn MỘT LẦN để tạo keo tụ. Thành phần hoạt tính, ion nhôm, kết tủa từ nước dưới dạng nhôm hydroxit trong vòng vài phút. Nếu liều lượng dùng không đủ, nó bị mất hoạt tính. Do đó, cần thận trọng khi thực hiện thử nghiệm để xác định tỷ lệ tạo tủa hiệu quả.
Để thực hiện phép thử, tạo dung dịch gốc phèn 10.000 mg/L (dung dịch X) bằng cách hòa tan 1 g phèn chua trong 100 mL nước và đổ đầy nước cần thử (nước ao nuôi) vào 10 lọ 1 lít trong suốt theo tỉ lệ sau:
Thứ tự các lọ mẫu thử | Lượng dung dịch X cho vào lọ (mL) | Giá trị nhập bảng (ppm) |
---|---|---|
Lọ 1 | 0,5 | 5 |
Lọ 2 | 1 | 10 |
Lọ 3 | 1,5 | 15 |
Lọ 4 | 2 | 20 |
Lọ 5 | 2,5 | 25 |
Lọ 6 | 3 | 30 |
Lọ 7 | 3,5 | 35 |
Lọ 8 | 4 | 40 |
Lọ 9 | 4,5 | 45 |
Lọ 10 | 5 | 50 |
Khuấy mạnh và để trong một giờ, sau đó kiểm tra từ Lọ 1 đến khi thấy lọ nào taọ kết tủa thì dừng lại. Nhập giá trị vào bảng (Ví dụ: Lọ 5 thì nhập 25).
Loại bỏ các nguồn gây đục trước tiên
Xử lý bằng chất keo tụ, đặc biệt là phèn, hầu như luôn làm sạch được độ đục của ao. Tuy nhiên, độ đục có thể quay trở lại do các nguồn gây đục chưa được kiểm soát. Các hoạt động do máy sục khí tạo ra gây ra độ đục, và tác động của sóng và gió bình thường đủ để liên tục tái huyền phù các hạt lơ lửng và gây ra độ đục.
Phương pháp tốt nhất luôn là loại bỏ các nguồn gây đục, và chỉ sử dụng phèn nếu vẫn còn đục.
NANO NNA VIỆT NAM